Wednesday, February 4, 2009

Một số thuật ngữ của Ngôn ngữ học tri nhận

0. Bất cứ ngành khoa học nào cũng có hệ thống thuật ngữ chuyên biệt của nó, nhờ đó nó trình bày, miêu tả, thuyết giải đối tượng nghiên cứu, nội dung và phương pháp khoa học của ngành. NNHTN cũng vậy. Tuy tuổi đời của nó chỉ mới khoảng hơn ba mươi, song số thuật ngữ của nó đã đủ để có thể soạn một quyển từ điển chuyên ngành ngôn ngữ học tri nhận. Các nhà khoa học Nga đã làm việc đó (x. Kubriakova và những tác giả khác 1997). Cần nói thêm rằng bên cạnh những thuật ngữ đích thực là chuyên ngành NNHTN như tri nhận (cognition), ý niệm (concept), điển dạng (prototype) v.v., còn có rất nhiều những thuật ngữ vay mượn của những khoa học khác, nhưng được hiểu theo quan điểm của NNHTN, chẳng hạn như tri thức, tri giác, ý thức, thông tin, phạm trù, ẩn dụ v.v. Điều này không có gì lạ và được giải thích bằng tính liên thông giữa các khoa học.
Có một thực tế là trong một số tài liệu về NNHTN bằng tiếng Việt, các thuật ngữ không được các tác giả giải thích, mà được dùng một cách đương nhiên, tuy có chua thêm từ tiếng Anh hoặc tiếng Nga, tiếng Pháp v.v. bên cạnh (trong dấu ngoặc đơn) làm như những từ tiếng nước ngoài ấy chính là sự giải thích vậy. Đó là lối dùng cái không biết để giải thích cái chưa biết. Những từ tiếng nước ngoài chua bên cạnh thuật ngữ Việt chỉ có gía trị làm chuẩn để người đọc đối chiếu thuật ngữ Việt với nguyên bản tiếng nước ngoài (nếu người đọc biết tiếng nước ngoài tương ứng). Trong phần này, chúng tôi chỉ giới thiệu một số thuật ngữ tối cần thiết mà người ta thường gọi là những từ chìa khoá giúp mở cánh cửa đi vào khoa học tri nhận.

1. Tri nhận (cognition)

1.1. Khái niệm "tri nhận" – là khái niệm trung tâm của khoa học tri nhận. Nó chứa đựng hai nghĩa của những từ La Tinh kết hợp lại: cognitio có nghĩa là nhận thức và cogitatio có nghĩa là tư duy, suy nghĩ. Tóm lại nó biểu hiện một quá trình nhận thức hoặc là tổng thể những quá trình tâm lí (tinh thần, tư duy) – tri giác, phạm trù hoá, tư duy, lời nói v.v. phục vụ cho việc xử lí và chế biến thông tin. Nó bao gồm cả sự nhận thức và đánh giá bản thân mình trong thế giới xung quanh và xây dựng bức tranh thế giới đặc biệt - tất cả những cái tạo thành cơ sở cho hành vi của con người.
Tri nhận là tất cả những quá trình trong đó những dữ liệu cảm tính được сải biến khi truyền vào trong não dưới dạng những biểu tượng tinh thần (hình ảnh, mệnh đề, khung, cảnh v.v.) để có thể lưu lại trong trí nhớ con người.
Đôi khi tri nhận còn được định nghĩa như là sự tính toán (computation), nghĩa là xử lí thông tin dưới dạng những kí hiệu, cải biến nó từ dạng này sang dạng khác – thành mật mã khác, thành cấu trúc khác.

1.2. Khoa học tri nhận (cognitive science) và ngôn ngữ học tri nhận (cognitive linguistics). Liên quan đến khoa học tri nhận, các bộ môn khác nhau nghiên cứu những bình diện khác nhau của sự tri nhận: ngôn ngữ học nghiên cứu những đặc điểm ngôn ngữ của hệ thống tri thức, triết học nghiên cứu những vấn đề chung của tri nhận và phương pháp luận của các quá trình nhận thức, thần kinh học quan tâm đến những cơ sở sinh học của sự tri nhận và những hạn chế về mặt sinh lí học của các quá trình diễn ra trong não của con người v.v.; tâm lí học trước hết nghiên cứu những phương pháp thực nghiệm và những thủ thuật khai thác tri nhận.

1.3. Hoạt động tri nhận (cognitive activity) – đó là một quá trình thiết định giá trị (nghĩa) của biểu thức ngôn ngữ, nghĩa là tính thông tin của nó. Nói rộng ra, hoạt động tri nhận tạo cho con người khả năng đi đến một quyết định và/hoặc một sự hiểu biết nhất định, tóm lại, đó là hoạt động tư duy dẫn đến chỗ thông hiểu (thuyết giải) một cái gì đó. Kết quả của hoạt động tri nhận là sự tạo ra một hệ thống những ý niệm giúp con người hiểu biết, giả định, suy nghĩ và/hoặc tưởng tượng về các đối tượng của thế giới hiện thực và các thế giới khả dĩ. Điều đó thuộc về hệ thống ý niệm của con người.
Hoạt động tri nhận là một bộ phận cấu thành của ý thức con người (những thành tố khác của ý thức là năng lực sản sinh những hành động ý thức, tri thức cụ thể - kết quả của hoạt động tri nhận được dùng trong những hành động tri nhận tiếp theo của con người). Hoạt động tri nhận triển khai trong những điều kiện văn hoá nhất định, điều đó hạn chế việc tạo dựng những “thế giới khả dĩ”. Đặc biệt nội dung của những chuyện thần thoại, những tiêu chuẩn đạo đức, những nguyên tắc chính trị, tôn giáo và những thành tố khác của văn hoá được phản ánh trong những quy trình và kết quả của hoạt động tri nhận. Do đó mà có quan niệm về hoạt động tri nhận như một tập hợp những quy trình chuyển đổi một hiện thực này sang một hiện thực khác.
Tham gia vào hoạt động tri nhận có những hệ thống xử lí thông tin khác nhau, vì thế những cấu trúc ý thức được tạo ra không đồng nhất và phụ thuộc vào kênh theo đó thông tin được truyền đến cho con người.
Khác với những dạng khác của hoạt động tri nhận, ngôn ngữ có thuộc tính hai mặt: với tư cách là công cụ tri nhận, ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu đóng vai trò quan trọng trong sự biểu hiện (mã hoá) và trong sự cải biến thông tin. Đó là mặt bên trong của ngôn ngữ. Còn có cả mặt bên ngoài nữa: ngôn ngữ như một đối tượng độc lập đối với con người, chức năng biểu hiện của nó về mặt lịch sử không tách rời khỏi chức năng giao tiếp.

2. Tri thức, hay sự hiểu biết (knowledge) là thuật ngữ được dùng rất phổ biến trong khoa học tri nhận. Nó liên quan đến những vấn đề sau: a) Cái gì sinh ra tri thức: những quy luật tồn tại khách quan trong thế giới hay cái nhìn chủ quan của con người đối với thế giới; b) Sự phát triển của tri thức xảy ra như thế nào; c) Có thể có những loại tri thức nào đối lập nhau (chẳng hạn, tri thức kinh nghiệm và duy lí, tri thức ngôn ngữ (ngôn từ) và ngoài ngôn ngữ v.v.); d) Những cơ chế và/hoặc quy trình nào xác định được tính chất của việc thu nhận tri thức và trong những quá trình nào xuất hiện tri thức (một mặt, đó là quy nạp và suy diễn, suy luận v.v., mặt khác – các thao tác so sánh, nhận biết, phạm trù hoá và phân loại đối tượng; liên tưởng và sự kết nối liên tưởng các đơn vị v.v.); e) Dưới dạng nào, ở đâu và trong những cấu trúc nào tri thức được trình diện cho trí tuệ con người, những hệ thống trình diện tri thức nào tồn tại trong nó và chúng tương tác với nhau như thế nào (chẳng hạn, trong số những cấu trúc trình diện tri thức có các khung (frames), скрипты, cảnh (сценарии), mệnh đề, hình ảnh, các nét v.v., còn trong số các hệ thống tri thức có trí nhớ, từ vựng tinh thần, cấu trúc ý niệm v.v. g) Vấn đề về philogenese và ontogenese của tri thức; h) vấn đề về sử dụng tri thức trong các quá trình tư duy và hoạt động lời nói.

3. Thông tin (information) – đó là tất cả những dữ liệu con người nhận được từ bên ngoài theo nhiều kênh khác nhau: kênh thu nhận cảm tính và kênh vận động-cảm giác, và cả những dữ liệu đã được hệ thần kinh trung ương xử lí và được con người lựa chọn, thuyết giải và lưu giữ trong đầu dưới dạng biểu hiện tinh thần.
Khoa học tri nhận quan tâm trước hết đến thông tin tri nhận - một loại thông tin đặc trưng của con người được tiếp nhận qua kinh nghiệm nhận thức thế giới khi tri giác và khái quát hoá kinh nghiệm này. Đối tượng riêng của khoa học tri nhận là thông tin tinh thần mà Fodor định nghĩa như “mật mã (code) bên trong” (Fodor 1975). Một số học giả khác (Miller, Johnson-Laird 1976) hiểu thông tin tinh thần là cấu trúc ý niệm”. Jackendoff 1992 cho rằng nhiệm vụ của lí thuyết tri nhận là nghiên cứu cấu trúc của thông tin tinh thần và những nguyên tắc “vi tính hoá” (computation) thông tin đó. Thông tin tinh thần có quan hệ với các không gian tinh thần chứa đựng nội dung về thế giới hiện thực cũng như về những kế hoạch, niềm tin, chủ đích v.v.
Thông tin ý niệm được xem như kết quả của hoạt động nhận thức của con người do con người xử lí và cấu trúc hoá thành tri thức. Thông tin ý niệm có thể cung cấp những tin tức về sự tình khách quan trong thế giới và những tin tức về các thế giới khả dĩ với sự tình trong các thế giới đó.

4. Phạm trù hoá (categorization) là một trong những khái niệm then chốt trong việc miêu tả hoạt động nhận thức của con người liên quan đến hầu hết những năng lực và hệ thống tri nhận trong bộ máy tri nhận của nó và với cả những thao tác được thực hiện trong các quá trình tư duy như so sánh, đồng nhất, thiết lập sự giống nhau và tương đồng.
Với nghĩa hẹp phạm trù hoá là việc đưa những hiện tượng, đối tượng, quá trình v.v. vào phạm vi kinh nghiệm, vào phạm trù và thừa nhận nó là một thành tố của phạm trù này, song với nghĩa rộng hơn thì đó là quá trình cấu tạo và phân suất chính bản thân các phạm trù, là quá trình phân chia thế giới bên ngoài và thế giới bên trong của con người, quá trình sắp xếp các hiện tượng theo thứ tự số lượng ít hơn hoặc hợp nhất chúng lại. Đồng thới đó là kết quả của hoạt động phân loại.
Đôi khi người ta khẳng định rằng hiện tượng phạm trù hoá là hiện tượng ngôn ngữ học, do đó người ta nói đó là hiện tượng phạm trù hoá ngôn ngữ học. Những kết quả của nó được phản ánh trong từ vựng đủ nghĩa, còn mỗi một từ đủ nghĩa được xem như đó là sự phản ánh một phạm trù riêng lẻ với rất nhiều những yếu tố đại diện đứng sau nó. Nếu không có tên gọi thì làm sao chúng ta biết được con người nói bằng một thứ ngôn ngữ tự nhiên có thể quy một đối tượng nào đó, một quá trình, một thuộc tính hay một hiện tượng nào đó vào một lớp hoặc một phạm trù nào. Song điều khẳng định này không nên hiểu một cách quá thô thiển bởi vì các con vật cũng có thể phân biệt được những kích thích với bản chất khác nhau và phản ứng lại những kích thích đó một cách khác nhau (Jackendoff 1983). Những năng lực này thể hiện rất rõ trong những thí nghiệm với trẻ em. Trẻ em không biết những thuật ngữ chung để gọi tên phạm trù (ví dụ, tên gọi các loại “hoa quả” và “rau”, song theo yêu cầu của người làm thí nghiệm chúng có thể xếp những thứ người ta đưa cho chúng theo từng đống khác nhau.
Cùng với sự phát triển cách tiếp cận tri nhận các quan điểm về bản chất của quá trình phạm trù hoá đã thay đổi về cơ bản. Nguồn gốc về cách hiểu mới này gắn liền với tên tuổi của L. Wittgenstein, người đã phân tích một cách độc đáo những ý nghĩa của từ “trò chơi” và chỉ ra rằng tất cả các nghĩa tương đồng chỉ có mối liên hệ với nhau qua “sự giống nhau về dòng họ”, nghĩa là ở mỗi cặp nghĩa so sánh có một nét nghĩa chung nào đó. Chẳng hạn, một người bà con có thể giống với một người khác ở chỗ họ có tính khí giống nhau, lại có thể giống với một người khác nữa về ngoại hình. Những tư tưởng này về sau được Lakoff phát triển rất hiệu quả và được phản ánh trong cái gọi là phương pháp điển dạng và ngữ nghĩa học điển dạng.
E. Rosch (1975) đã áp dụng phương pháp điển dạng trong việc phân định các cấp độ phạm trù hoá, trong đó có cấp độ cơ sở được xem là trung tâm để nghiên cứu các dạng khác nhau của hoạt động tri nhận.
Thực tế đã có rất nhiều công trình tâm lí học cũng như ngôn ngữ học nghiên cứu hiện tượng phạm trù hoá các màu. Nhiều người cho rằng toàn bộ thế giới xung quanh ta được tổ chức giống như những gam màu: chúng ta chia cắt thế giới chỉ bởi vì việc phân suất các mảng riêng lẻ trong thế giới do ngôn ngữ quy định.

5. Điển dạng (prototype)
Nguyên tắc nghiên cứu theo cách tiếp cận tri nhận là không tách rời ngôn ngữ với hoạt động tri nhận, trí nhớ, chú ý, các mối liên hệ xã hội của cá nhân và những bình diện khác của kinh nghiệm. Có thể nói rằng bản chất của ngôn ngữ tự nhiên là nó không tách biệt hiện thực ngoài ngôn ngữ với hiện thực tâm lí và với thế giới xã hội của người bản ngữ.
Ngôn ngữ học tri nhận cho rằng mỗi một ngôn ngữ tươтg đương với một hệ thống nhất định những ý niệm nhờ đó người bản ngữ lĩnh hội, cấu trúc hoá, phân loại và thuyết giải dòng thông tin từ thế giới bên ngoài nhập vào. Vai trò chủ chốt của ý niệm trong tư duy là phạm trù hoá cho phép nhóm họp những đối tượng có sự giống nhau nhất định thành những lớp tương ứng. NNHTN có mục đích chính là miêu tả cấu trúc của ý niệm và thuyết giải tên gọị của sự vật và đối tượng bằng những tên gọi đã được cố định trong hệ thống từ vựng của ngôn ngữ, miêu tả ý tưởng, chứ không đơn thuần là miêu tả hình ảnh cảm tính của đối tượng điển hình, nói một cách khác, miêu tả điển dạng (prototypes). Điển dạng được hiểu như là sự biểu hiện bằng sơ đồ hạt nhân ý niệm của phạm trù. Lí thuyết điển dạng chủ trương rằng phạm trù có một cấu trúc nội tại, trong đó mối quan hệ giữa các yếu tố được thể hiện khác nhau; lí thuyết điển dạng xác lập hệ tôn ti của các phạm trù phản ánh hệ tôn ti từ vựng (G, Taylor 1989).
Điển dạng từ vựng. Điển dạng từ vựng là hạt nhân nội dung của từ đa nghĩa, nó kết dính tất cả các nghĩa của từ thành một cấu trúc ngữ nghĩa thống nhất và nó có tính hướng nội, nghĩa là nó hướng vào hệ thống từ vựng-ngữ nghĩa của một ngôn ngữ cụ thể.
Điển dạng từ vựng có những thuộc tính vi phân và tích phân tối giản cần thiết để đồng nhất đối tượng của suy nghĩ. Nhiệm vụ xác lập những điển dạng từ vựng của động từ được thực hiện trong những công trình nghiên cứu của Ch. Fillmore và của G. Taylor. Hai ông đưa ra cách hiểu về mặt điển dạng từ “murder” (giết người một cách cố ý) như sau:
1. có sự kiện giết ai đó;
2. có ý đồ giết người đó;
3. có ý đồ xấu trong tình huống đã cho.
Theo Fillmore, tất cả những trường hợp cố ý giết người đều chứa đựng những thành tố nêu trên, điều đó chứng tỏ rằng chúng là trung tâm, là hạt nhân, chúng làm thành nghĩa của từ “murder”.
Quan niệm của Taylor hơi khác. Ông nêu lên những thành tố của từ “murder” như sau:
1. có sự kiện giết ai đó;
2. cái chết của người đó là kết quả của những hành động của một người khác (hoặc một nhóm người).
Trong khi đó các từ điển tường giải nêu ra 4 ý nghĩa của động từ “murder” như sau:
1. to kill (a person) unlawfully and with malice;
2. to spoil smth by bad execution, pronunciation, representation (she murdered that song);
3. to consume time unprofitably;
4. to destroy, to put an end to smth.
Trong số đó nghĩa (1) là nghĩa đen. Tất cả các nghĩa còn lại đều là nghĩa bóng. Cái chúng ta quan tâm là hạt nhân nội dung có thể kết nối làm một tất cả 4 nghĩa của động từ “murder”. Để có thể gọi nét nghĩa này hay nét nghĩa khác là điển dạng, thì phải làm sao cho chúng có mặt cả trong nghĩa đen, cả trong nghĩa bóng của từ.
Thành tố thứ nhất do Fillmore nêu lên là phù hợp cho động từ với một bổ sung nhỏ: tước mất cuộc sống, tiêu diệt. Thành tố này có mặt trong cả 4 nghĩa. So sánh những câu sau đây:
а) He was murdered. – (Anh ta bị tước mất cuộc sống)
b) She murdered that song. – (cô ta đã giết chết bài hát, nghĩa là bài hát ngừng tồn tại, bài hát đã chết)
c) He bought a newspaper to murder time. – (anh ta mua một tờ báo để giết thời gian, nghĩa là có sự kiện thời gian bị mất, bị hao tốn một cách vô ích)
d) I could murder a pizza (dùng trong hội thoại). – (tôi có thể giết một cái bánh pizza, nghĩa là kết thúc sự tồn tại của nó, ngốn hết, xực hết)
Với tư cách là thành tố thứ hai, cũng giống như Fillmore, có thể nêu lên sự hiện diện của một ý đồ. Còn nghĩa thứ nhất, thì trong đó thành tố này tất nhiên là có mặt, đối với nghĩa thứ ba, nghĩa thứ tư cũng tương tự như thế (to consume time unprofitably; to destroy smth): một người có thể cố tình làm một việc gì đó với mục đích “giết” thời gian (đọc báo trong khi chờ tàu v.v.). Có thể là thành tố này cũng có mặt cả trong ý nghĩa thứ hai (to spoil smth by bad representation): She murdered the song. Hàm ý trong trường hợp này như sau: cô ta làm việc đó một cách cố ý, cô ta muốn làm hỏng sự biểu diễn và cô ta đã làm việc đó. Nếu không có thành tố này, thì khó có thể phân biệt những câu sau đây: She murdered the song / She killed the song. Không thể cho rằng hai câu này có nghĩa như nhau. Khi tích cực hoá ý nghĩa từ vựng của động từ trong lời nói, cần nhận thấy những tác động nhất định của ngôn cảnh. Cần tính đến cả định hướng dụng học chung của phát ngôn.
Sự hiện diện của một ác ý là thành tố thứ ba (theo Fillmore) cũng có mặt trong các ý nghĩa thứ nhất, thứ hai và thứ tư. Trong nghĩa thứ hai (to murder time), thành tố này bị áp đảo, bởi vì nét nghĩa “sự hiện diện của một ác ý” trở nên mờ nhạt do ảnh hưởng qua lại của các từ trong cụm từ. Danh từ “thời gian” không phải là danh từ động vật, nhưng cũng như tất cả những danh từ động vật, nó có nét nghĩa “giới hạn, kết thúc”, do đó cho phép sử dụng nó kết hợp với động từ “murder”. Tất nhiên ở đây xảy ra sự chuyển nghĩa xuất phát của động từ "murder smb/smth" (tiêu diệt, tước mất cuộc sống ® làm hao tốn, sử dụng, giết thời gian).
Do đó có thể kết luận rằng những thành tố do Fillmore nêu ra đối với động từ “murder” là những điển dạng. Những thành tố tạo nên ý nghĩa trung tâm, hay hạt nhân của từ giúp phân biệt động từ cụ thể này với những động từ đồng nghĩa với nó. Vì vậy song song với dộng từ “murder” chúng ta cũng đã xét đến những từ “kill” và “slaughter” như là những từ đồng nghĩa với nó. Chỉ được xem là điển dạng những nét cơ bản nhất, có giá trị nhất quyết định đặc trưng của động từ này hay động từ khác. Đối với từ “murder”, thành tố “ác ý” là quan trọng nhất. Còn đối với động từ “kill”, thì sự vắng mặt thành tố “ác ý” trong thành phần điển dạng của nó tạo ra ý nghĩa rằng việc giết có thể được thực hiện không có ác ý. So sánh: He was murdered (Nó đã bị giết chết (sát hại) - He was killed in a carcrash (Nó đã bị giết (chết) bởi một tai nạn xe hơi ).
Thành tố “ác ý” lúc đầu không có mặt cả trong ý nghĩa của động từ to slaughter, bởi vì ý nghĩa thứ nhất của nó trước đây là: to kill animals for food, to butcher (giết động vật để làm thức ăn). Sau đó khi động từ này bắt đầu được dùng với ý nghĩa “to kill people brutally or in large numbers” (giết người một cách dã man hoặc hàng loạt), thì thành tố này xuất hiện, tuy vậy trong động từ slaughter được tích cực hoá không phải là ác ý mang tính hình sự, mà là cái ý số đông người bị giết và giết một cách tàn bạo, nghĩa là giết người như giết súc vật.
Tuỳ thuộc vào người nói cho cái ý nào là quan trọng nhất, thì anh ta chọn một trong ba động từ đã nêu trên: nếu “ác ý” là quan trọng, thì chọn “murder”, nếu số lượng lớn/tàn bạo là quan trọng, thì chọn slaughter. Từ “kill” là từ đồng nghĩa trung hoà của chúng, hoặc chúng ta chon nó trong trường hợp muốn nhấn mạnh “tính không cố ý” của việc giết người.
Theo cách hiểu như đã trình bày, những thành tố do Taylor đưa ra cho động từ “murder”, cụ thể là:
1. có sự kiện giết ai đó;
2. cái chết của người đó là kết quả của những hành động của một người khác (hoặc một nhóm người)
là hoàn toàn không đủ bởi vì chúng không cho phép phân biệt những từ đồng nghĩa, và chúng có thể được dùng như nhau cho bất kì động từ nào trong số đó.

6. Biểu tượng tinh thần (mental representation) - là một khái niệm chìa khoá của khoa học tri nhận liên quan đến quá trình biểu tượng thế giới trong đầu con người, đồng thời nó cũng liên quan đến đơn vị của biểu tượng đó tồn tại thay cho một cái gì đó trong thế giới hiện thực hoặc trong thế giới tưởng tượng và vì vậy nó thay cho cái gì đó trong các quá trình tư duy. Cách định nghĩa này chỉ ra tính chất kí hiệu hoặc biểu hiệu của biểu tượng và gắn kết nó với kí hiệu học.
Trong thời kì đầu của lịch sử khoa học tri nhận, các học giả tranh luận gay gắt về vấn đề hình thức “tồn tại” của biểu tượng trong bộ nhớ của con người và các loại biểu tượng. Lúc đầu biểu tượng tinh thần được miêu tả trong tâm lí học gắn chặt với các cấu trúc ngôn ngữ. Về sau người ta thừa nhận rằng có một loại biểu tượng khác - biểu tượng hình tượng và được nghiên cứu trong cái gọi là lí thuyết mã hoá thế giới cặp đôi. Theo lí thyết này tất cả các biểu tượng có thể phân thành hai loại: loại giống bức tranh và loại giống ngôn ngữ. Loại thứ nhất giữ được sự tương đồng với nguyên bản, loại hai có cấu trúc mệnh đề (vị tính). Có người cho rằng chính hình thức thứ hai của việc lưu giữ kiến thức là hình thức chính, song ý kiến này không được nhiều người chia sẻ.
Tổng hoà những biểu tượng tạo ra cái gọi là bộ nhớ, nó có chứa trí nhớ ngôn từ và trí nhớ hình ảnh. Tổng hoà những biểu tượng bằng ngôn từ được gọi là từ vựng tinh thần, và cuối cùng, tổng hoà tất cả những biểu tượng được gọi là hệ thống ý niệm, hay còn gọi là mô hình (bức tranh) ý niệm về thế giới.
Việc phân tích nguồn gốc của biểu tượng ở từng người riêng lẻ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Các nhà tri nhận luận cho đến nay vẫn tranh luận về khởi nguồn của biểu tượng và về trạng thái xuất phát của tâm lí có giá trị xác định con người sinh ra và đi vào thế giới, hoặc một số tiền đề bẩm sinh để cấu tạo nên chúng và cuối cùng là một hệ thống bẩm sinh đã hình thành của các biểu tượng. Có học thuyết cho rằng các loại biểu tượng khác nhau được hình thành dần dần theo từng giai đoạn: lúc đầu là giai đoạn vận động cảm giác, sau đó là giai đoạn hình tượng, cuối cùng là giai đoạn ngôn ngữ.

7. Khung (frame) – là thuật ngữ được phổ biến rất rộng rãi không chỉ trong các nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo, mà còn trong xã hội học, tâm lí học và ngôn ngữ học. Dưới dạng chung nhất khung là phương thức lưu trữ các biểu tượng trong bộ nhớ. Nó tương ứng với những khái niệm như sơ đồ trong tâm lí học tri nhận, những mối liên hệ liên tưởng, trường ngữ nghĩa, cảnh, mô hình tri nhận.
Khung là đơin vị của tri thức được tổ chức xung quanh một khái niệm nào đó và chứa đựng những dữ liệu về cái cơ bản, cái điển hình và cái khả dĩ đối với khái niệm đó. Khung cho biết cụ thể cái gì là đặc trưng và điển hình trong một nền văn hoá nhất định, cái gì không phải thế. Khung đặc biệt quan trọng đối với những tình tiết nhất định của mối tương tác xã hội - việc đi xem xi nê, chuyến đi bằng tàu hoả - nói chung rất quan trọng đối với những tình tiết trong cuộc sống. Khung tổ chức sự thông hiểu của chúng ta đối với thế giới nói chung, đồng thời tổ chức cả hành vi thường nhật của chúng ta (chẳng hạn, khi chúng ta trả tiền cho một chuyến đi hoặc mua vé một cách bình thường như chúng ta vẫn làm). Với cách tiếp cận này thì khung là cấu trúc của những dữ liệu để biểu tượng một tình huống đơn giản (chẳng hạn, đang ở trong phòng, tục lệ mừng sinh nhật của trẻ em). Khung kể chuyện là cái sườn của những câu chuyện điển hình, của những lời giải thích và chứng minh cho phép người nghe kết cấu cái khung chủ đề đầy đủ. Loại khung này chứa đựng sự thoả ước về việc làm sao có thể thay đổi được trung tâm của sự chú ý, về các nhân vật chính, về các hình thức của cốt truyện, về sự phát triển của hành động v.v. Liên quan với mỗi khung có các dạng của thông tin: về việc sử dụng nó, về chuyện phải chờ đợi sau đó, phải làm gì nếu như sự chờ đợi không được khẳng định.

8. Ần dụ tri nhận
Ẩn dụ tri nhận (ẩn dụ ý niệm – cognitive/conceptual metaphor) – đó là một trong những hình thức ý niệm hoá, một quá trình tri nhận biểu hiện và hình thành những khái niệm mới và không có nó thì không thể nhận được tri thức mới. Về nguồn gốc ẩn dụ tri nhận đáp ứng năng lực của con người nắm bắt và tạo ra sự giống nhau giữa những cá thể và những lớp đối tượng khác nhau.
Với cách tiếp cận chung nhất ẩn dụ được xem như là cách nhìn một đối tượng này thông qua một đối tượng khác, và với ý nghĩa đó ẩn dụ là một trong những phương thức biểu tượng tri thức dưới dạng ngôn ngữ. Ẩn dụ thường có quan hệ không phải với những đối tượng cô lập riêng lẻ, mà với những không gian tư duy phức tạp (những miền kinh nghiệm cảm tính và xã hội). Trong quá trình nhận thức, những không gian tư duy không thể quan sát trực tiếp này thông qua ẩn dụ xác lập mối tương quan với những không gian tư duy đơn giản hơn hoặc với những không gian tư duy có thể quan sát được cụ thể (chẳng hạn, cảm xúc của con người có thể so sánh với lửa, các lĩnh vực kinh tế và chính trị có thể so sánh với các trò chơi, với các cuộc thi thể thao v.v.) Trong những biểu tượng ẩn dụ tương tự diễn ra việc chuyển ý niệm hoá không gian tư duy quan sát được sang không gian không quan sát trực tiếp được. Trong quá trình này, không gian không thể quan sát trực tiếp được ý niệm hoá và nhập vào trong một hệ thống ý niệm chung của một cộng đồng ngôn ngữ nhất định. Đồng thời cùng một không gian tư duy có thể được biểu tượng nhờ một hoặc một số ẩn dụ ý niệm.
Có những loại ẩn dụ chính sau đây xác lập sự tương tự và liên tưởng giữa những hệ thống khái niệm khác nhau và sinh ra những ẩn dụ riêng biệt (theo Lakoff 1987; Lakoff, Johnson 1980; Reddy 1979; Langacker 1991).
1. Ẩn dụ cấu trúc (structural) ý niệm hoá từng miền riêng lẻ bằng cách chuyển sang chúng sự cấu trúc hoá một miền khác.
2. Ẩn dụ bản thể (ontological) phạm trù hoá những bản thể trừu tượng bằng cách vạch ranh giới của chúng trong không gian.
3. Ẩn dụ "kênh liên lạc/truyền thông tin (conduit metaphor) là quá trình giao tiếp như sự vận động của nghĩa "làm đầy" các biểu thức ngôn ngữ (vật chứa) theo "kênh" nối người nói và người nghe.
4. Ẩn dụ định hướng (orientational) cấu trúc hoá một số miền và tạo nên một hệ thống ý niệm hoá chung cho chúng; chúng liên quan đến việc định hướng trong không gian với những đối lập kiểu như "lên-xuống", "vào-ra", "sâu-cạn", "trung tâm-ngoại vi" v.v. Chẳng hạn, trong tiếng Anh, "hạnh phúc, sức khoẻ, có ý thức, hợp lí" được miêu tả thông qua ẩn dụ up (trên, lên), trong khi đó "bất hạnh, đau ốm, chết" - thông qua ẩn dụ down (dưới, xuống).
5. Ẩn dụ "container" (container metaphor) biểu tượng cho những ý được hiểu như "sự làm đầy những container" - những đơn vị ngôn ngữ cụ thể.
6. Ẩn dụ "kiến tạo" (blockbuilding metaphor) biểu tượng ý của những sản phẩm lời nói lớn như sự "kiến tạo" từ những ý nhỏ hơn.

No comments:

Post a Comment