Ngôn ngữ học tri nhận
và lí thuyết tạo sinh-cải biến
Hai học thuyết này tồn tại song song với nhau, tuy NNHTN ra đời hơi muộn hơn một chút. Nhiều học giả cho rằng sự ra đời của NNHTN là sự phản ứng đối với lí thuyết tạo sinh-cải biến (TSCB). Vào những năm 60-70 thế kỉ XX ở Mĩ tồn tại và phát triển mạnh lí thuyết tạo sinh-cải biến do N.Chomsky khởi xướng. Thuộc khuynh hướng đó có một loạt công trình nghiên cứu về ngữ nghĩa học nổi tiếng, chẳng hạn, của Katz, Fodor 1963, Katz, Postal 1964, Bierwisch 1967 v.v.
Cần phải hiểu từ "phản ứng" một cách khoa học, nó không có nghĩa là chống đối, loại trừ nhau, mà là hai mặt mâu thuẫn của một sự thống nhất. Đại biểu của cả hai trào lưu ngôn ngữ học này đều lấy mục đích cuối cùng là nhận thức bản chất của ngôn ngữ con người, song hướng đi cũa họ nhằm tìm bản chất của ngôn ngữ là khác nhau. Nếu thuyết TSCB chủ trương đi vào chiều sâu của cấu trúc ngôn ngữ (những "cấu trúc sâu") trên cơ sở những dữ kiện ngôn ngữ quan sát trực tiếp được và hình thức hoá chúng đến độ lí tưởng gần giống như những công thức toán học, thì các nhà NNHTN đi theo một hướng hoàn toàn khác. Đối tượng nghiên cứu của họ là ngôn ngữ thường nhật của con người ở dạng tự nhiên nhất với những dữ kiện ngôn ngữ có thể quan sát trực tiếp được và cả những dữ kiện không thể quan sát trực tiếp được như trí tuệ, tri thức, ý niệm v.v. Có thể hình dung các hướng nghiên cứu của hai học thuyết này - tạo sinh-cải biến và tri nhận - giống như những hướng nghiên cứu của vật lí học: một hướng đi sâu vào thế giới vi mô - nguyên tử và các hạt cơ bản, một hướng khác đi vào thế giới vĩ mô - vũ trụ và các tinh cầu. Hai hướng ngược nhau, nhưng cùng nhằm một mục đích - nghiên cứu cấu trúc và sự vận động của vật chất.
Tuesday, February 3, 2009
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment