
Ý niệm (concept)
Từ tiếng Anh "concept" thường được dịch ra tiếng Việt là "khái niệm". Song các nhà tri nhận luận lại dùng từ "concept" với nghĩa khác rộng hơn từ "khái niệm": đó là "ý niệm". Yu.S. Stepanov cho rằng "khái niệm" là thuật ngữ của logich học và triết học, còn "ý niệm" là thuộc về logic toán học và văn hoá học. Ông định nghĩa ý niệm như sau: “ Ý niệm tựa như một khối kết đông của nền văn hoá trong ý thức con người; dưới dạng của nó nền văn hoá đi vào thế giới ý thức (tư duy) của con người, và, mặt khác, ý niệm là cái mà nhờ đó con người – người bình thường, không phải là “người sáng tạo ra những giá trị văn hoá” – chính con người đó đi vào văn hoá, và trong một số trường hợp nhất định có tác động đến văn hoá” (Stepanov 1997, tr. 40).
G.G. Slưshkin nghiên cứu những quan điểm khác nhau đối với ý niệm và nhận định rằng đặc điểm nổi bật có tính nguyên tắc của ý niệm là ở chỗ nó được xem như cơ sở để nghiên cứu tổng hợp ngôn ngữ và văn hoá, song bản thân nó không trực tiếp nằm trong phạm vi ngôn ngữ, cũng không nằm trong phạm vi văn hoá, và cũng không đồng thời nằm trong cả hai lĩnh vực này. Ý niệm là đơn vị của tư duy, là yếu tố của ý thức. Việc nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa ngôn ngữ và văn hoá sẽ không đầy đủ nếu thiếu cái khâu trung gian này. Thông tin văn hoá đi vào ý thức, ở đây nó dược sàng lọc, được chế biến (Slưshkin 2000).
Trần Trương Mĩ Dung nghiên cứu tổng hợp ý kiến của nhiều tác giả về sự khc nhau giữa "ý niệm" và "khái niệm" như sau:
a) Ý niệm là sự kiện của lời nói, đó là lời nói được phát ngôn ra. Do đó nó khác với khái niệm.
b) Ý niệm gắn chặt với người nói và luôn định hướng đến người nghe. Người nói và người nghe là hai bộ phận cấu thành của ý niệm.
c) Ý niệm mang tính chủ quan với nghĩa nó là một mảng của “bức tranh thế giới”, nó phản ánh thế giới khách quan qua lăng kính của ý thức ngôn ngữ dân tộc. Do đó ý niệm mang tính dân tộc một cách sâu sắc.
d) Ý niệm là đơn vị của tư duy (ý thức) của con người. Hai thuộc tính không thể tách rời nhau của ý niệm là trí nhớ và tưởng tượng. Ý niệm là một hành động đa chiều: nếu là hành động của trí nhớ thì nó hướng về quá khứ, nếu là hành động của trí tưởng tượng, thì nó hướng tới tương lai, còn nếu là hành động phán đoán, thì nó hướng về hiện tại.
đ) Ý niệm, khác với “khái niệm”, không chỉ mang đặc trưng miêu tả, mà còn có cả đặc trưng tình cảm-ý chí và hình tượng. Ý niệm không chỉ suy nghĩ, mà còn cảm xúc. Nó là kết quả của sự tác động qua lại của một loạt những nhân tố như truyền thống dân tộc, sáng tác dân gian, tôn giáo, hệ tư tưởng, kinh nghiệm sống, hình tượng nghệ thuật, cảm xúc và hệ thống giá trị. Ý niệm tạo ra một lớp văn hoá trung gian giữa con người và thế giới. Nó được cấu thành từ tri thức tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo lí, luật pháp, phong tục tập quán và một số thói quen mà con người tiếp thu được với tư cách là thành viên của xã hội.
Tóm lại, ý niệm chứa đựng ba thành tố: thành tố khái niệm, thành tố cảm xúc-hình tượng và thành tố văn hoá. Hai thành tố sau mang tính dân tộc sâu sắc (Trần Trương Mĩ Dung 2005, tr. 62).
Nói rộng ra, ý niệm là đơn vị tinh thần hoặc tâm lí của ý thức chúng ta, là đơn vị nội dung của bộ nhớ động, của từ vựng tinh thần và của ngôn ngữ bộ não (lingua mentalis), của toàn bộ bức tranh thế giới được phản ánh trong tâm lí con người. Trong các quá trình tư duy, con người dựa vào các ý niệm phản ánh nội dung các kết quả của hoạt động nhận thức thế giới của con người dưới dạng “những lượng tử” của tri thức. Các ý niệm nảy sinh trong quá trình cấu trúc hoá thông tin về một sự tình khách quan trong thế giới, cũng như về những thế giới tưởng tượng và về sự tình khả dĩ trong những thế giới đó. Các ý niệm quy cái đa dạng của những hiện tượng quan sát được và tưởng tượng về một cái gì đó thống nhất, đưa chúng vào một hệ thống và cho phép lưu giữ những kiến thức về thế giới. Người ta cho rằng chính ngôn ngữ bảo đảm cách tiếp cận với sự miêu tả và xác định bản chất của ý niệm. Theo một số học giả, những ý niệm đơn giản nhất được biểu hiện bằng một từ, những ý niệm phức tạp hơn được biểu hiện trong các cụm từ và câu. A. Wierzbicka (1985) viết rằng việc phân tích hệ thống từ vựng của các ngôn ngữ có thể giúp phát hiện một số lượng không lớn những “phần tử sơ đẳng” kiểu như AI ĐÓ, CÁI GÌ ĐÓ, VẬT, CHỖ v.v., nếu đem hợp chúng lại thì có thể miêu tả toàn bộ thành phần từ vựng cuả ngôn ngữ.
Những người khác cho rằng một phần của thông tin ý niệm có cái “đuôi” ngôn ngữ, nghĩa là những phương thức biểu hiện chúng, nhưng cái phần thông tin này được biểu hiện trong tâm lí hoàn toàn khác, nghĩa là bằng những biểu tượng tinh thần loại khác - những hình tượng, những bức tranh, những sơ đồ v.v. Chẳng hạn, chúng ta biết phân biệt cây thông với cây tùng không phải bởi vì chúng ta hình dung chúng như những tập hợp những nét khu biệt, hoặc như những tổ hợp ý niệm khác nhau, mà chỉ là bởi vì chúng ta phân biệt chúng nhờ thị giác một cách dễ dàng và bởi vì những ý niệm về các cây này được thể hiện trước hết bằng hình ảnh (hình tượng).
Để cấu tạo hệ thống ý niệm cần phải giả định sự tồn tại một số ý niệm xuất phát, hoặc những ý niệm cơ sở từ đó sẽ phát triển tất cả những ý niệm còn lại. Những ý niệm cơ sở này tổ chức một không gian ý niệm và hoạt động như những chuẩn để phân chia không gian. Đó là những ý niệm đối tượng và các bộ phận của nó, sự vận động, những hành động, vị trí hoặc không gian, thời gian, thuộc tính v.v. Tổng hoà tất cả những ý niệm có trong trí tuệ của con người, sự tổ hợp chúng lại được gọi là hệ thống ý niệm.
No comments:
Post a Comment